Nghiên cứu đã bước đầu chế tạo được vật liệu tinh thể quang tử kiểu opal của SiO2 bằng phương pháp Stober trong môi trường kiềm kết hợp với phương pháp tự tập hợp. Sau đó nhờ phương pháp rung siêu âm để phân bố các chấm lượng tử CdSe vào khoảng trống trong mạng tinh thể quang tử và lên bề mặt các hạt cầu SiO2. Thông qua việc kiểm tra cấu trúc bằng các phương pháp phân tích đặc trưng vật liệu SEM và TEM, có thể thấy các hạt SiO2 đều có hình cầu tương đối đồng đều với kích thước khoảng 230nm.
I. GIỚI THIỆU
Tinh thể quang tử (photonic crystals)
là một loại vật liệu mới xuất phát từ ý tưởng về sự tương tự nhiều mặt giữa
photon và electron. Tinh thể quang tử được công bố đầu tiên vào năm 1987 do Eli
Yablonovitch và Sajeev John [1]. Về bản chất, tinh thể quang tử là các cấu trúc
nano quang học có ảnh hưởng đến sự lan truyền của các hạt photon trong nó,
tương tự như cách mà các tinh thể bán dẫn tác động lên chuyển động của
electron. Tại Việt Nam, các nghiên cứu đầu tiên về tinh thể quang tử được tiến
hành tại Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam và vẫn được tiếp tục cho đến nay [2]. Các
tinh thể quang tử thường được ứng dụng để điều khiển sự lan truyền ánh sáng. Ví
dụ chế tạo sợi tinh thể quang tử thay thế cho sợi quang học truyền thống trong
các thiết bị quang học phi tuyến. Các tinh thể quang tử opal SiO2
thường được sử dụng làm chất nền tăng cường huỳnh quang cho các vật liệu, và ứng
dụng trong vật liệu xúc tác, điện tử, dược phẩm và kỹ thuật phân tích.
Chấm lượng tử là một tinh thể nano
được làm từ vật liệu bán dẫn mà kích thước của tinh thể đủ nhỏ để làm xuất hiện
các đặc tính cơ học lượng tử. Các chấm
lượng tử với tính chất quang lý đặc biệt như phát huỳnh quang theo kích thước
chấm lượng tử, hiệu suất phát quang cao, bền theo thời gian, nên các chấm lượng
tử đã được sử dụng như các chất đánh dấu cho quá trình dò tìm tương tác sinh
học trong các cảm biến sinh học (biosensors). Chấm lượng tử của cadimi thường
gặp như CdSe, CdS, CdTe, CdSe/ZnS và CdSe/ZnSe/ZnS…, trong đó các chấm lượng tử
CdSe có thể được kích thích trên một dải bước sóng rộng và phát ra với một đỉnh
hẹp, tạo ra dải phát xạ thuần màu trải dài gần như toàn bộ vùng quang phổ nhìn
thấy.
Mục tiêu của nghiên cứu này là bước đầu chế tạo vật
liệu tinh thể quang tử kiểu opal của SiO2,
sau đó phân bố chấm lượng tử lõi CdSe vào trong mạng tinh thể quang tử và
nghiên cứu tính chất huỳnh quang của vật liệu chế tạo chứa chấm lượng tử đó.
II. THỰC NGHIỆM
2.1.
Chế tạo tinh thể quang tử kiểu opal
Hóa chất chuẩn bị gồm tetraethoxysilane (Si(C2H5O)4,
tetraethyl orthosilicate, TEOS, 98%, Ấn Độ), butan-2-ol (C4H9OH,
99%, Trung Quốc), cồn tuyệt đối (C2H5OH, 99.5%, Trung
Quốc), nước (H2O) và ammonia (NH3 30%, Đức). Tiến hành chế
tạo ra các hạt cầu SiO2 theo phương pháp của Stober [3], bằng cách
thủy phân hợp chất TEOS trong điều kiện xúc tác bazơ. Trong quá trình này TEOS
thủy phân với nước hình thành các hạt keo nhỏ (các hạt mầm). Sau đó các hạt keo
này bắt đầu kết tụ lại với nhau cho đến kích thước cân bằng (khi hạt keo đủ lớn
thì do ảnh hưởng của lớp điện tích kép trên bề mặt hạt keo sẽ ngăn cản sự hạt
keo kết tụ thêm nữa). Butanol có tác dụng làm cho các hạt cầu tròn, bề mặt các
hạt cầu trơn nhẵn. Tiếp theo, các hạt keo tròn lơ lửng được ly tâm để loại bỏ
các chất còn dư, để có thể thu được các hạt keo SiO2 dạng hình cầu
với kích thước đồng đều ta tiến hành ly tâm nhiều lần. Sau khi thu được các hạt
SiO2 thì đem phân tán vào cồn.
Sau đó tiến hành chế tạo tinh thể quang tử kiểu opal bằng
phương pháp tự tập hợp trên đế thủy tinh, bằng cách cho các hạt cầu SiO2
đang phân tán trong cồn tuyệt đối vào trong một cốc nhỏ. Tiếp đó, đặt vào cốc một
đế thủy tinh theo một góc nghiêng nhỏ. Toàn bộ hệ sẽ được đặt trong một buồng
kín có duy trì nhiệt độ khoảng 60°C. Quá
trình bay hơi từ từ của dung môi sẽ giúp sắp xếp đều đặn các hạt SiO2 trên bề mặt của đế thủy tinh. Chiều
dày lớp tinh thể quang tử SiO2 khoảng 34 μm.
2.2.
Tinh thể quang tử chứa chấm lượng tử
Đặt toàn bộ hệ tinh thể quang tử SiO2 (gồm
cả đế thủy tinh) nằm ngang trong dung dịch chứa các chấm lượng tử CdSe (hãng NNCrystal
US Corporation) rồi tiến hành rung siêu âm trong 15 phút, khi đó các chấm lượng
tử CdSe sẽ được phân bố từ từ vào các khoảng trống trong tinh thể và giữa các
hạt cầu SiO2. Các chấm lượng
tử CdSe có phối tử ổn định là octadecylamine (ODA), kích thước chấm lượng tử 2,0-6,9 nm, các đỉnh hấp thụ 460-640 nm, các đỉnh
phát xạ 460-670 nm, được minh họa trên Hình 1.
Hình 1: Ánh sáng huỳnh quang của chấm lượng tử CdSe
trong dung môi toluen (hãng NNCrystal US)
2.3.
Phân tích đặc trưng vật liệu
Mẫu tinh thể quang tử kiểu opal chế tạo ban đầu được
đem phân tích đặc trưng về hình thái bề mặt của mẫu bằng phương pháp kính hiển
vi điện tử quét (SEM, Scanning Electron Microscopy). Mẫu tinh thể quang tử chứa
chấm lượng tử CdSe được đem phân tích bằng phương pháp kính hiển vi điện tử truyền
qua (TEM, Transmission Electron Microscopy)
nhằm nghiên cứu về hình dạng thực của các chấm lượng tử và các bằng chứng về kích
thước các chấm lượng tử. Cuối cùng, mẫu đem đo phổ huỳnh quang (Spectrofluorometer)
của các chấm lượng tử CdSe theo bề dày của mẫu.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.
Kết quả hình thái bề mặt bằng
SEM
a) b)
Hình
2. Ảnh SEM của các hạt SiO2 trong mạng tinh thể quang tử kiểu opal (a)
trên bề mặt tinh thể, (b) tại vị trí mặt cắt
Từ ảnh SEM có
thể thấy các hạt SiO2 được sắp xếp trật tự trong mạng tinh thể quang
tử, các hạt có hình dạng tròn và đồng đều, kích thước khoảng 230nm.
3.2.
Kết quả phân tích vật liệu bằng TEM
a) b)
Hình
3. Ảnh TEM của (a) mẫu tinh thể khi chưa có CdSe, (b) mẫu tinh thể đã chứa chấm
lượng tử CdSe.
Từ hình ảnh TEM có thể thấy trên bề mặt các hạt cầu
SiO2 đã xuất hiện nhiều hạt nhỏ kích thước vài nm và bề mặt hạt cầu
SiO2 không còn trơn nhẵn. Các hạt nhỏ kích thước vài nm chính là các
chấm lượng tử CdSe bám trên bề mặt của SiO2 cũng như nằm trong các
lỗ trống giữa các quả cầu SiO2 trong mạng tinh thể quang tử. Điều đó
chứng tỏ rằng phương pháp rung siêu âm đã giúp các chấm lượng tử dịch chuyển
vào các khe trống giữa các hạt cầu SiO2 trong tinh thể quang tử.
Kết quả phân tích phân bố kích thước các hạt SiO2
trong tinh thể quang tử trước khi cho CdSe cho thấy giá trị trung bình kích
thước các hạt cầu SiO2 là 231 nm (độ lệch chuẩn 20 nm), và sau khi
đã cho các chấm lượng tử CdSe thâm nhập vào mạng tinh thể quang tử thì giá trị
trung bình kích thước các hạt cầu SiO2 là 245 nm (độ lệch chuẩn 20
nm). Chứng tỏ trong mạng tinh thể quang tử SiO2 chứa chấm lượng tử
CdSe thì trên bề mặt các hạt SiO2 đã có sự bám dính các chấm lượng
tử CdSe và làm kích thước các hạt SiO2 lớn hơn một chút so với dạng tinh
thể quang tử opal ban đầu.
3.3.
Kết quả phổ huỳnh quang
Nghiên
cứu tiến hành đo phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử dọc theo bề dày của mẫu,
từ bề mặt mẫu rồi đi xuống phía bên dưới mẫu. Kết quả chụp phổ huỳnh quang các
chấm lượng tử CdSe trong tinh thể quang tử được thể hiện trên Hình 4.
Hình 4. Cường độ huỳnh
quang của các chấm lượng tử CdSe trong tinh thể quang tử
Từ
hình ảnh có thể thấy, các chấm lượng tử đã đi vào được tới tận bên trong của
mẫu tinh thể, thể hiện ở dải phổ huỳnh quang ở vị trí gần đế (30 μm). Cường độ huỳnh
quang của các chấm lượng tử càng ở phía trong càng yếu, bởi vì càng vào sâu trong
mẫu thì số chấm lượng tử thâm nhập được vào càng ít đi nên cường độ huỳnh quang
giảm. Bên cạnh đó, đỉnh phổ huỳnh quang có xu hướng dịch về phía bước sóng gần 600nm
và dải phổ bị mở rộng hơn. Kết quả phổ huỳnh quang này hoàn toàn tương đồng với
kết quả đã công bố trong nghiên cứu [4].
IV. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã bước đầu chế tạo được vật liệu tinh thể
quang tử kiểu opal của SiO2 bằng phương pháp Stober trong môi trường kiềm kết hợp với phương pháp tự tập hợp. Sau
đó nhờ phương pháp rung siêu âm để phân bố các chấm lượng tử CdSe vào khoảng
trống trong mạng tinh thể quang tử và lên bề mặt các hạt cầu SiO2. Thông
qua việc kiểm tra cấu trúc bằng các phương pháp phân tích đặc trưng vật liệu
SEM và TEM, có thể thấy các hạt SiO2 đều có hình cầu tương đối đồng
đều với kích thước khoảng 230nm, và sau khi được phân bố chấm lượng tử CdSe thì
kích thước các hạt SiO2 vào khoảng 245nm. Kết quả chụp phổ huỳnh
quang của vật liệu tinh thể quang tử kiểu opal SiO2 chứa CdSe cho
thấy bước sóng của đỉnh phổ huỳnh quang phát xạ ở khoảng gần 600nm.
Các nghiên cứu dự kiến tiếp theo sẽ tiến hành phân bố
các chấm lượng tử loại khác vào mạng tinh thể quang tử để có cơ sở để lựa chọn
được vật liệu quang tử tính chất quang mạnh hơn, đáp ứng được các yêu cầu của
vật liệu trong chế tạo cảm biến.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
|
E.
Yablonovitch, 1987. Inhibited
spontaneous emission in solid-state physics and electronics, Phys. Rev.
Lett. 58(20), 2059–2062.
|
[2]
|
Nguyen
Duy Thien, Nguyen Ngoc Tu, Nguyen Quang Hoa, Sai Cong Doanh and Le Van Vu,
2021. Fabrication, characterization of
SiO2 nanospheres and SiO2 opal photonic crystals.
VNU Journal of Science: Mathematics Physics, Vol.37, No.1 (2021) 68-73.
|
[3]
|
W. Stöber, A. Fink, and E.
Bohn, 1968. Controlled growth of
monodisperse silica spheres in the micron size range, J. Colloid
Interface Sci. 26, 62-69.
|
[4]
|
Vũ Đức
Chính, 2011. Nghiên cứu chế tạo, tính
chất quang của các chấm lượng tử CdSe với cấu trúc lõi/vỏ và định hướng ứng
dụng. Luận án Tiến sĩ, Viện Hàn lâm KH&CNVN. |
Minh Thành - Khoa Hóa và Môi trường - ĐHTL